PV GAS sẵn sàng nắm bắt cơ hội trở thành đơn vị cung cấp năng lượng xanh hàng đầu Việt Nam.
Hydrogen (H2) phát thải thấp được coi là chìa khóa then chốt cho nền kinh tế trung hòa carbon. PV GAS là đơn vị tiên phong trong nghiên cứu – phát triển (R&D) cũng như triển khai những hợp tác hiệu quả để thúc đẩy sản xuất và sử dụng H2 phát thải thấp tại Việt Nam. Nhân dịp chào đón năm mới 2025, TS. Phạm Văn Phong, Tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) đã có cuộc trao đổi với các phóng viên báo chí về vai trò của PV GAS - doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khí tự nhiên hàng đầu Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ quan trọng trong cung cấp năng lượng sạch cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước; về kế hoạch phát triển năng lượng H2 của PV GAS, nằm trong chiến lược chung của Quốc gia.
Việt Nam, với tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, được xem là địa điểm lý tưởng để sản xuất H2 xanh một trong những loại hình H2 phát thải thấp. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách và chiến lược để thúc đẩy phát triển H2 phát thải thấp tại Việt Nam.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó có nhấn mạnh đến phát triển năng lượng H2; Quyết định số 893/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, bao gồm các mục tiêu phát triển H2 xanh. Ngày 7/2/2024, tại Quyết định số: 165/QĐ-TTg, Chính phủ cũng đã ban hành Chiến lược phát triển năng lượng H2 của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Những chính sách này nhằm tạo ra khung pháp lý và môi trường thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp H2 phát thải thấp tại Việt Nam.
Phóng viên: Thưa ông, hiện nay Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và PV GAS đã có những kế hoạch cụ thể nào để phát triển H2 phát thải thấp trong bối cảnh chiến lược năng lượng Quốc gia của Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050?
TS. Phạm Văn Phong: PVN/PV GAS đã phối hợp cùng với các Bộ, ngành xây dựng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, Chiến lược phát triển H2 của Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 nhằm đảm bảo phù hợp với các cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị COP26 và thực tiễn của Việt Nam.
Để tối ưu hóa lợi thế về hạ tầng, lĩnh vực hoạt động, PVN đã chỉ đạo và giao cho PV GAS làm đầu mối nghiên cứu các phương án sản xuất, tồn chứa, phân phối và sử dụng H2 phát thải thấp và tìm kiếm, đánh giá và phát triển thị trường tiêu thụ, xuất khẩu H2 phát thải thấp.
Đồng thời, PV GAS cũng tổ chức nghiên cứu các công nghệ sản xuất, vận chuyển, phân phối H2 phát thải thấp bao gồm H2 xanh và H2 lam. Các công nghệ điện phân, CCS/CCUS, công nghệ vận chuyển, tồn chứa H2 bằng đường ống, xe bồn áp suất cao ở thể khí, hóa lỏng H2 hoặc hấp phụ H2 trong chất mang thể rắn.
Kết quả đánh giá cho thấy, giải pháp tận dụng hạ tầng đường ống vận chuyển khí tự nhiên của PV GAS để vận chuyển H2 là khả thi về kỹ thuật, giúp giảm chi phí đầu tư ban đầu. PV GAS đang tiếp tục phối hợp với các đơn vị trong chuỗi sản xuất của PVN để xem xét, đề xuất các phương án triển khai cụ thể.
Ngoài ra, PV GAS cũng đang nghiên cứu phát triển các dự án H2 cùng với các dự án nhập khẩu và phân phối LNG tại Việt Nam. Nghiên cứu triển khai dự án thử nghiệm ở quy mô nhỏ gồm sản xuất, cung cấp H2 xanh cho các hộ công nghiệp, lĩnh vực giao thông vận tải tại khu vực Đông Nam Bộ. Nghiên cứu, đánh giá các cơ hội tận dụng hạ tầng hiện hữu trong sản xuất, vận chuyển, cung cấp và xuất khẩu các sản phẩm xanh dẫn xuất của H2 xanh là Amonia xanh, Methanol, e-Methane.
Phóng viên: PV GAS đang hợp tác với những tổ chức nghiên cứu nào để phát triển công nghệ sản xuất H2 phát thải thấp? Hiện đã có dự án nghiên cứu, trình diễn nào được triển khai chưa, thưa ông? Công ty có kế hoạch gì để thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất H2 phát thải thấp?
TS. Phạm Văn Phong: PV GAS xác định rõ định hướng trong việc nghiên cứu, tiếp cận và ứng dụng các công nghệ mới trong ngành công nghiệp H2 như đã đề cập ở trên. Hiện, chúng tôi đang nghiên cứu triển khai dự án sản xuất, cung cấp H2 xanh quy mô nhỏ cho các hộ công nghiệp tại Đông Nam bộ từ việc sử dụng điện mặt trời điện phân để sản xuất H2 xanh.
Công nghệ điện phân dự kiến sử dụng công nghệ PEM hoặc AKL, ngoài ra còn ứng dụng các công nghệ về tồn chứa, vận chuyển H2 ở áp suất cao, và các công nghệ trong việc cung cấp H2 vào các hệ thống đốt, hệ thống sử dụng của các hộ tiêu thụ, ngoài ra là việc cung cấp H2 cho các phương tiện giao thông vận tải.
Dự án được triển khai cần có sự hợp tác, đóng góp từ nhiều bên liên quan gồm các nhà bản quyền công nghệ, cung cấp thiết bị, các định chế tài chính xanh, các hộ tiêu thụ, các tổ chức quốc tế về phát triển xanh là cầu nối để nhận được các ưu đãi từ các chính phủ ...
Hiện nay PV GAS đang hợp tác với Tổ chức hợp tác quốc tế Đức – GIZ để đăng ký dự án thử nghiệm trong chương trình PPP (đối tác công tư) do chính phủ Đức tài trợ. PV GAS cũng trao đổi hợp tác với JICA, JETRO của Nhật Bản về những hợp tác trong lĩnh vực H2 phát thải thấp. Ngoài ra PV GAS cũng hợp tác với nhiều doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài, những nhà công nghệ, ngân hàng, định chế tài chính xanh trong và ngoài nước để triển khai các dự án về chuyển dịch năng lượng, sản xuất xanh.
Phóng viên: Làm thế nào để PV GAS cân bằng giữa việc phát triển H2 xanh và các nguồn năng lượng truyền thống hiện tại? Theo ông, thách thức lớn nhất trong việc phát triển và ứng dụng H2 xanh tại Việt Nam là gì? Công ty có những giải pháp gì để vượt qua những thách thức này?
TS. Phạm Văn Phong: Thách thức lớn nhất của H2 phát thải thấp là chi phí, giá thành cao và thói quen sử dụng năng lượng truyền thống. Vì vậy, quá trình chuyển đổi năng lượng là một quá trình dài hạn và cần có sự nỗ lực chung của tất cả các bên để đạt được mục tiêu đề ra.
Để triển khai được những kế hoạch, mục tiêu quốc tế, quốc gia cần có sự hợp tác giữa các bên gồm Chính phủ, các nhà công nghệ, các nhà đầu tư hạ tầng và các hộ sử dụng. Bên cạnh đó vấn đề về cơ chế hỗ trợ hoặc các chính sách thuế, ưu đãi để khuyến khích các năng lượng xanh sẽ góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh so với các năng lượng truyền thống.
PV GAS xác định là đơn vị tiên phong trong việc cung cấp năng lượng xanh tại Việt Nam, vì thế, chúng tôi sẽ đẩy mạnh công tác nghiên cứu – phát triển cũng như những hợp tác hiệu quả để thúc đẩy thực hiện các mục tiêu.
Chúng tôi sẽ bắt đầu từ các dự án thử nghiệm với quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng quan tâm phát triển các cơ hội đối với các dự án thương mại có tiềm năng. Chúng tôi cho rằng, thế mạnh về hạ tầng, kinh nghiệm và nguồn nhân lực là những yếu tố quan trọng để đạt được những lợi thế trong lĩnh vực mới và đầy thách thức này, lĩnh vực sản xuất cung cấp H2 xanh, Amoniac xanh và các sản phẩm năng lượng xanh nói chung.
Phóng viên: Cơ hội mà H2 phát thải thấp mang lại cho PV GAS và ngành năng lượng Việt Nam trong tương lai là gì, thưa ông? PVN và PV GAS có kế hoạch chuyển đổi hệ thống đường ống vận chuyển và phân phối, các kho chứa và cửa hàng kinh doanh xăng dầu để ứng dụng cho lĩnh vực H2?
TS. Phạm Văn Phong: Chuyển dịch năng lượng với mục đích chống biến đổi khí hậu là xu hướng tất yếu trên thế giới và là mục tiêu toàn cầu, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài xu hướng này. Thách thức để H2 phát thải thấp cạnh tranh được với những năng lượng truyền thống là rất lớn bao gồm chi phí và công nghệ cũng như thói quen của thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh thách thức sẽ có nhiều cơ hội mới mở ra với những người tiên phong. PV GAS có tầm nhìn trở thành đơn vị cung cấp năng lượng xanh hàng đầu Việt Nam và chúng tôi sẵn sàng nắm bắt những cơ hội đó.
Hạ tầng khí của PV GAS bao gồm đường ống vận chuyển, hành lang tuyến ống, các kho chứa sản phẩm khí là những tài sản quan trọng nhất của PV GAS đối với hoạt động kinh doanh hiện nay và cũng là những tiền đề quan trọng trong việc phát triển những sản phẩm năng lượng xanh.
Trước tiên, chúng tôi nghiên cứu việc chuyển đổi từng phần để sử dụng hạ tầng phục vụ vận chuyển, tồn chứa H2 xanh, Amoniac xanh. Tiếp theo, chúng tôi sẽ tổ chức triển khai thử nghiệm thực tiễn việc này để đánh giá và đưa ra những giải pháp kỹ thuật để đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Trong dài hạn khi nhu cầu tăng lên, chúng tôi có định hướng mở rộng các hạ tầng hiện có theo các tiêu chuẩn quốc tế về H2, Amoniac để phục vụ chiến lược dài hạn về sản xuất, cung cấp năng lượng xanh của PV GAS.
Phóng viên: PV GAS có chiến lược gì để phát triển thị trường tiêu thụ H2 xanh tại Việt Nam và quốc tế, thưa ông?
TS. Phạm Văn Phong: Chúng tôi sẽ đồng hành với các hộ tiêu thụ, nhà cung cấp, các đối tác trong và ngoài nước để cùng phát triển các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu chung. Như tôi đã nói những thế mạnh của PV GAS về hạ tầng, kinh nghiệm, nhân lực và các nguồn lực khác là rất quan trọng.
Bên cạnh đó chúng tôi cho rằng cần tận dụng sự hợp tác có hiệu quả để triển khai những lĩnh vực mới này, ngoài ra là sự hỗ trợ của các Chính phủ, cụ thể về thể chế chính sách đặc biệt là việc phân bổ sử dụng các nguồn tài chính xanh cho các dự án về H2 phát thải thấp. Thông qua PVN, PV GAS đã đăng ký một số dự án trong danh sách nhận hỗ trợ tài chính từ JETP và mong được chấp thuận, phê duyệt.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông!
(Ngọc Linh - Mekong ASEAN)